Amlexin với đau cơ khởi phát muộn (DOMS)

Đau cơ khởi phát muộn (DOMS) là gì?

Những người không quen với hoạt động thể chất thường xuyên hoặc các vận động viên đang trở lại tập luyện sau một thời gian dài không hoạt động, thường bị đau âm ỉ, nhức nhối phần cơ bắp sau 24 giờ và đạt đến đỉnh điểm sau 72h, rồi từ từ biến mất sau từ 5-7 ngày sau đó.

Đau cơ khởi phát muộn là gì

Loại đau nhức này được gọi là Đau cơ khởi phát muộn (DOMS - delayed onset muscle soreness). Biểu hiện chính của DOMS chủ yếu là cảm giác khó chịu, đau tức, sưng tấy, cứng khớp và mất sức mạnh phần cơ bắp tạm thời. Với những vận động viên chuyên nghiệp, DOMS có thể dẫn đến các thương tích, trấn thương bất lợi.

Nguyên nhân gây ra DOMS

Nguyên nhân dẫn đến DOMS

Tại sao các biểu hiện đau cơ khởi phát muộn (DOMS) lại xuất hiện sau khoảng 24h vận động tăng bất thường? Bởi đó là khoảng thời gian cơ thể xảy ra 1 loạt các đáp ứng để chống lại, ngăn ngừa các tổn thương mà nó gây nên.

Quá trình gây nên các biểu hiện DOMS như sau:

Đầu tiên đó là các yếu tố liên quan đến căng thẳng cơ học, điều này xảy ra ngay sau khi cơ thể thực hiện các hoạt động vùng cơ quá sức sau thời gian dài không hoạt động, các sợ cơ co giãn liên tục dẫn đến bị đứt gãy các sợi myofibril (myofibrin là phân tử protein có nhiều trong các sợi tơ cơ, có tác dụng gây co cơ). Khi các sợi myofibril bị đứt gãy, ngay lập tức cơ bắp bị giảm đi sức mạnh.

Tiếp theo là quá trình cơ thể đáp ứng lại sự kiện này, một loạt các chuyển hóa được diễn ra dẫn đến các phản ứng viêm của cơ thể. Khi các sợi myofibril bị đứt gãy, có tổn thương màng dẫn đến giải phóng prostaglandin và các cytokine tiền viêm và các phản ứng miễn dịch của cơ thể bắt đầu diễn ra. Tế bào thực bào như bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân di chuyển về phía vị trí tổn thương. Kết quả là, trong vài giờ đầu tiên các phản ứng miễn dịch hoạt động loại bỏ các mảng vỡ tế bào, giải phóng các các enzyme phân hủy protein, cytokine gây viêm. Các phản ứng này có thể làm tăng sinh ra các gốc tự do ROS, sự gia tăng các gốc tự do có thể kích hoạt thêm các phản ứng viêm, stress oxy hóa dẫn đến tình trạng tổn thương cơ thứ phát.

Một sản phẩm tự nhiên có hoạt tính chống viêm và chống oxy hóa có thể cung cấp một biện pháp can thiệp tốt hơn đối với DOMS.

Xem thêm: Tác dụng giảm đau, giảm viêm của Amlexin

Giới thiệu về Amlexin

Giới thiệu về Amlexin

Amlexin là hỗn hợp Phân đoạn chiết xuất có chứa hợp chất Flavan (chứa Catechin) từ lõi gỗ của thây cây Keo cao (Acacia catechu) và Phân đoạn chiết xuất chứa flavonoid và stilbenoid từ vỏ rễ cây Dâu Tằm (Morus alba).

Hơn nữa, hỗn hợp chuẩn hóa AmLexin đã cho thấy các đặc tính chống viêm và chống oxy hóa khi được đánh giá trong các nghiên cứu được công bố trước đây.

  •  AmLexin làm giảm 46,3–53,3% mức độ phù chân và giảm 43,6–54,8% độ nhạy cảm so với nhóm đối chứng trong mô hình gây phù chân chuột bằng carrageenan.
  • Với liều lượng 50 mg / kg, AmLexin cũng cho thấy sự ức chế có ý nghĩa thống kê đối với các cytokine gây viêm quan trọng như IL-1β, TNF-α và IL-6 trong mô hình viêm khớp chuột do collagen.
  • AmLexin cũng cho thấy khả năng trung hòa superoxide anion cao hơn khi được kiểm tra khả năng chống oxy hóa bằng khả năng hấp thụ ORAC.
  • Amlexin ức chế enzym trung gian gây viêm cyclooxygenase 1 (COX-1), cyclooxygenase 2 (COX-2) và 5-lipoxygenase (5-LOX).

Dựa trên các đặc tính chống viêm và chống oxy hóa của AmLexin, các nhà khoa học thực hiện 1 nghiên cứu đánh giá hiệu quả của nó đối với DOMS.

Tóm tắt nghiên cứu

Nghiên cứu là một thử nghiệm lâm sàng song song, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược kéo dài 9 tuần, được tiến hành tại một trung tâm nghiên cứu GLH Nutrition, Inc., Draper, UT.

Mục tiêu chính của nghiên cứu là cung cấp các chỉ số khách quan và chủ quan chứng minh khả năng của nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên AmLexin, trong việc “bảo vệ khớp” (chủ động “ngăn ngừa” cơn đau và cải thiện khả năng oxy hóa khử) ở những đối tượng khỏe mạnh đang luyện tập chạy bán marathon 13,1 dặm.

Tổng số 30 đối tượng khỏe mạnh (15 đối tượng mỗi nhóm; AmLexin / giả dược) với nhóm tuổi 18–70 tuổi, 25 đối tượng đã hoàn thành việc tham gia nghiên cứu (12 đối với AmLexin và 13 đối với giả dược), liều 400mg mỗi ngày chia làm 2 lần. Những đối tượng này có 8 tuần luyện tập tăng dần độ khó để chuẩn bị cho cuộc thi chạy bán Marathon 13.1 dặm lên đồi.

Sử dụng bảng câu hỏi WOMAC và VAS để đánh giá các chỉ số nghiên cứu.

Sử dụng hệ thống RedoxSYS để đánh giá tác dụng chống oxy hóa:

  • Chỉ số sORP: đánh giá khả năng Stress oxy hóa toàn bộ cơ thể ở bệnh nhân chấn thương. Ở bệnh nhân chấn thương có giá trị này cao hơn bệnh nhân khỏe mạnh.
  • Chỉ số cORP: đánh giá khả năng chống oxy hóa. CORP cao hơn tương ứng với lượng dự trữ chống oxy hóa của cơ thể lớn hơn

Amlexin với DOMS 1

Kết quả

BẢNG ĐIỂM WOMAC

1. Chỉ số đau khớp và khó chịu

Các đối tượng trong nhóm AmLexin trải qua mức độ khó chịu thấp đáng kể tính đến 24 giờ sau khi bán marathon (Hình 2). Các mức giảm này được duy trì trong những ngày tiếp theo sau khi chạy. Khi so sánh với các đối tượng được bổ sung giả dược trông giống nhau, mức độ thoải mái được cải thiện trong nhóm AmLexin có ý nghĩa thống kê ở ngày 1 và 3. Mức độ giảm này được so sánh giữa các nhóm và được tìm thấy là mức giảm lần lượt là 43%, 40,5% và 67,4% đối với nhóm AmLexin vào các ngày 1, 2 và 3.

Amlexin với DOMS 2

Tỷ lệ các đối tượng trong mỗi nhóm không có cảm giác khó chịu được thể hiện trong Hình 3. Trong khi tất cả các đối tượng trong nhóm dùng giả dược đều cảm thấy khó chịu ở một mức độ nào đó, 25% đối tượng trong nhóm AmLexin không có triệu chứng này vào ngày đầu tiên sau khi tập thể dục.

Tỷ lệ này cũng cao hơn vào ngày thứ 2 (AmLexin = 33,3% và giả dược = 7,7%) và ngày 3 (AmLexin = 45,5% và giả dược = 23,1%) sau khi tập thể dục, điều này cho thấy sự phục hồi nhanh chóng của những người bổ sung Amlexin với DOMS.

Amlexin với DOMS 3

2. Hoạt động hàng ngày

Các hoạt động sinh hoạt hàng ngày cũng được cải thiện đáng kể ở nhóm sử dụng Amlexin sau 24h luyện tập thể dục và duy trì ở các ngày tiếp theo so với nhóm sử dụng giả dược.

 Về mức độ, có 34,5%, 23,3% và 66,6% cải thiện Các hoạt động sinh hoạt hàng ngày so với nhóm giả dược sau ngày 1, 2 và 3 tương ứng (Hình 4).

Amlexin với DOMS 4

3. Chỉ số cứng khớp

Mặc dù chỉ số cứng khớp báo cáo giữa 2 nhóm là không có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên có dấu hiệu rõ ràng nhóm sử dụng Amlexin có độ cứng khớp thấp hơn so với nhóm sử dụng giả dược. Tổng điểm WOMAC cho sự khó chịu, hoạt động thường ngày và cứng khớp thấp hơn ở nhóm sử dụng Amlexin (Hình 5).

Amlexin với DOMs 5

THANG ĐIỂM VAS

1. Khó chịu ở cơ bắp chân

Ở bảng WOMAC, nhóm sử dụng Amlexin có sự khó chịu ít hơn trong suốt thời gian phục hồi ngay từ ngày đầu tiên luyện tập cho đến khi tham gia chạy bán marathon.

Với thang điểm VAS, nhóm sử dụng sử dụng Amlexin giảm cảm giác khó chịu ở cơ bắp chân ở mức 31,8%, 35,0% và 29,3% so với nhóm đối chứng ở các ngày 1,2 và 3 tương ứng (Hình 6)

Amlexin với DOMS 6

2. Khó chịu cơ tứ đầu đùi

Sự khó chịu ở cơ tứ đầu đùi ở những người chạy bán Marathon được bổ sung Amlexin giảm hơn nhóm đối chứng ở mức 34,9% và 27,3% ở ngày 1 và 2 sau khi chạy. Giảm sự khó chịu ngay ở ngày đầu tiên có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm giả dược (Hình 7)

Smlexin với DOMS 7

3. Sự khó chịu ở cơ Gân kheo

So sánh sự khó chịu ở cơ gân kheo giữa 2 nhóm điều trị và giả dược được thể hiện ở hình 8. Nhóm vận động viên chạy bộ sử dụng Amlexin có sự khó chịu ở gân kheo ít hơn nhóm đối chứng với mức giảm 43,2%, 46,4% và 33,2% ở các ngày 1,2 và 3 tương ứng. Trong đó mức giảm ngày 1 và 2 có ý nghĩa thống kê.

Amlexin với DOMS 8

4. Sự khó chịu ở đầu gối

Đối tượng điều trị với Amlexin cảm thấy khó chịu tối thiểu trong suốt thời gian hồi phục, ở mức 46,1%, 26,8% và 29,4% giảm cảm giác khó chịu cho những đối tượng được bổ sung AmLexin so với nhóm dùng giả dược. Trong đó mức giảm ngày đầu tiên có ý nghĩa thống kê (Hình 9)

Amlexin với DOMS 9

TÁC DỤNG CHỐNG OXY HÓA

Sử dụng hệ thống RedoxSYS để đánh giá tác dụng chống oxy hóa:

  • Chỉ số sORP: đánh giá khả năng Stress oxy hóa toàn bộ cơ thể ở bệnh nhân chấn thương. Ở bệnh nhân chấn thương có giá trị này cao hơn bệnh nhân khỏe mạnh.
  • Chỉ số cORP: đánh giá khả năng chống oxy hóa. CORP cao hơn tương ứng với lượng dự trữ chống oxy hóa của cơ thể lớn hơn

Sau nửa cuộc thi chạy bán marathon, giá trị sORP ở nhóm sử dụng Amlexin có mức độ giảm thấp hơn nhóm đối chứng ở ngày 1 và ngày 6 theo dõi (Hình 10)

Amlexin với DOMS 10

 Tương tự, đã có sự gia tăng rõ rệt mức cORP trong huyết tương đối với cả hai nhóm điều trị sau nửa marathon (Hình 11). Nhóm sử dụng Amlexin có chỉ số cORP huyết tương cao hơn nhóm đối chứng ở ngày 1 và 6.

Amlexin với DOMS 11

 Những dữ liệu này là dấu hiệu cho những thay đổi đáng kể xảy ra theo hướng ngược lại đối với các đối tượng trong nhóm AmLexin. Nói cách khác, do bổ sung AmLexin, đã đủ giảm stress oxy hóa đồng thời tăng khả năng chống oxy hóa ở mỗi đối tượng tham gia nhóm điều trị.

Tham khảo: ncbi.nlm.nih.gov


Thông tin chi tiết vui lòng liên hệ:

Công ty TNHH Dược Phẩm Nasol Quốc Tế

Hotline: 0387 368 760

Email: info@nasol.com.vn      Web: nasol.com.vn